Thể chế – nền tảng then chốt cho khu thương mại tự do
Về bản chất, khu thương mại tự do là khu vực địa lý đặc thù do Nhà nước quy định, nơi hàng hóa được phép nhập khẩu, lưu kho, gia công, lắp ráp và tái xuất với mức thuế xuất nhập khẩu bằng 0 hoặc rất thấp. Bên cạnh đó là các cơ chế ưu đãi về hải quan, thủ tục hành chính đơn giản, tạo môi trường thương mại thông thoáng nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Với vai trò là trung tâm logistics và đầu mối giao thương quốc tế, khu thương mại tự do giúp quốc gia tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Cú hích tăng trưởng trong giai đoạn mới
Ngày 26/6/2024, Quốc hội thông qua Nghị quyết 136 về tổ chức chính quyền đô thị và thí điểm các cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng, trong đó có nội dung liên quan đến khu thương mại tự do. Tiếp đó, ngày 13/6/2025, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1142/QĐ-TTg chính thức thành lập Khu thương mại tự do Đà Nẵng.
Đối với Hải Phòng, ngày 27/6/2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết 226 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố, đồng thời cho phép thành lập Khu thương mại tự do Hải Phòng với nhiều chính sách vượt trội. Mục tiêu là đưa Hải Phòng trở thành trung tâm kinh tế, dịch vụ và công nghệ cao, từng bước hình thành “thung lũng Silicon”, thu hút dòng vốn đầu tư và nguồn nhân lực chất lượng cao.

Theo ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), khu thương mại tự do về bản chất là khu phi thuế quan, chưa áp dụng các biện pháp hải quan trong phạm vi khu vực. Mô hình này có nhiều điểm tương đồng với khu chế xuất, nhưng được mở rộng thêm yếu tố dịch vụ. Nếu khu chế xuất chỉ tập trung vào sản xuất hàng xuất khẩu, thì khu thương mại tự do cho phép phát triển song song sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ logistics – yếu tố then chốt để thu hút và luân chuyển hàng hóa.
“Khu thương mại tự do chỉ thực sự phát huy giá trị khi trở thành nơi giao lưu hàng hóa mạnh mẽ. Ở đó, vừa thu hút đầu tư sản xuất tại chỗ, vừa hấp dẫn dòng hàng hóa từ các quốc gia, khu vực khác. Nếu không tạo được lợi thế này, khu thương mại tự do sẽ khó khác biệt so với các khu kinh tế thông thường”, ông Hải nhấn mạnh.
Cũng theo ông Hải, các cảng tự do, cảng miễn thuế gắn với khu thương mại tự do đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút nguồn hàng, bởi hàng hóa có thể tập kết, lưu chuyển mà chưa phải thực hiện thủ tục hải quan trước khi tái xuất.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thí điểm mô hình khu thương mại tự do tại Đà Nẵng và Hải Phòng, giới chuyên gia đánh giá đây có thể trở thành động lực tăng trưởng mới, giúp nền kinh tế mở rộng không gian phát triển và gia nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thể chế đồng bộ, luật chơi rõ ràng để khu thương mại tự do bứt phá
Dù được kỳ vọng lớn, khu thương mại tự do vẫn là mô hình chưa có tiền lệ tại Việt Nam. Đây là chủ trương thể hiện quyết tâm đổi mới, tinh thần dám nghĩ, dám làm của Đảng và Nhà nước trong việc tiếp cận các mô hình phát triển tiên tiến trên thế giới.
Theo TS Trần Đình Thiên – Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, hiệu quả vận hành của khu thương mại tự do phụ thuộc trực tiếp vào chất lượng chính sách và thể chế đi kèm. Do đó, cần chuẩn bị kỹ lưỡng các điều kiện về hạ tầng, logistics, bảo đảm sự kết nối thông suốt không chỉ trong nội khu mà còn với toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, thủ tục hành chính phải thực sự đơn giản, nhanh gọn và hiệu lực ngay từ đầu.

“Khu thương mại tự do cần được coi là hình mẫu cải cách thể chế, với hệ thống chính sách tiến bộ, tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Điều mang tính quyết định không chỉ là ưu đãi, mà là một thể chế đủ ưu việt để tạo sức lan tỏa mạnh mẽ”, TS Trần Đình Thiên nhận định.
Trên thế giới, nhiều quốc gia xem khu thương mại tự do là công cụ chiến lược để thúc đẩy cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Dù có cách tiếp cận khác nhau, điểm chung là đều hướng tới việc biến khu thương mại tự do thành động lực tăng trưởng mới.
PGS. TS Hồ Thị Thu Hòa – Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển logistics Việt Nam cho biết, Trung Quốc bắt đầu thí điểm khu thương mại tự do từ năm 2013 và hiện đã phát triển 18 khu, mỗi khu có định hướng, chức năng riêng nhằm tránh cạnh tranh chồng chéo. Đây là kinh nghiệm quan trọng Việt Nam có thể tham khảo trong quá trình hình thành và mở rộng mô hình này. Bên cạnh đó, cần quy hoạch đồng bộ các trung tâm logistics để tối ưu hóa dòng chảy hàng hóa và tạo sự phát triển hài hòa.
Việc thành lập khu thương mại tự do không chỉ đơn thuần là xây dựng một mô hình kinh tế mới, mà còn là bước khởi đầu cho quá trình thử nghiệm thể chế ở cấp độ cao. Thông qua đó, các rào cản về tư duy, pháp lý và hành chính được tháo gỡ để áp dụng những chính sách mới một cách có kiểm soát, hạn chế rủi ro khi triển khai trên diện rộng.
Ngược lại, nếu vẫn duy trì tư duy quản lý cũ, hạ tầng thiếu đồng bộ, thủ tục phức tạp, nguồn nhân lực hạn chế, khoa học công nghệ và dữ liệu chưa được chia sẻ hiệu quả, khu thương mại tự do khó có thể thành công.
Vì vậy, một “đường băng” thể chế đủ dài, đủ sâu, minh bạch và ổn định, cùng với luật chơi chuyên nghiệp, chính là điều kiện tiên quyết để khu thương mại tự do Việt Nam vươn tầm quốc tế, trở thành động lực tăng trưởng mới, bền vững trong giai đoạn phát triển tiếp theo của nền kinh tế.
Nguồn: Tiếng Nói Việt Nam
Tin nổi bật

Thể chế – nền tảng then chốt cho khu thương mại tự do
Khu thương mại tự do (Free Trade Zone – FTZ) là mô hình kinh tế còn khá mới tại Việt Nam. Nhiều chuyên gia nhận định, để mô hình này vận hành hiệu quả và phát huy đúng vai trò, điều kiện tiên quyết không chỉ nằm ở ưu đãi, mà còn ở một hệ thống thể chế đồng bộ, minh bạch và đủ “dư địa” để phát triển lâu dài.

Logistics Việt Nam duy trì đà tăng trưởng, củng cố chuỗi cung ứng và thúc đẩy xuất nhập khẩu
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều biến động khó lường, logistics Việt Nam vẫn cho thấy khả năng phục hồi vững chắc và duy trì đà tăng trưởng tích cực, qua đó đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định chuỗi cung ứng và tạo động lực cho hoạt động xuất nhập khẩu đạt thêm những dấu mốc mới.

Long Thành – trung tâm kết nối, động lực tăng trưởng mới
Sân bay Long Thành được xác định là động lực trung tâm, giữ vai trò “hạt nhân” trong chiến lược phát triển kinh tế của Đồng Nai và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, mở ra không gian tăng trưởng mới gắn với hạ tầng, logistics và đô thị sân bay.

Kinh tế Đà Nẵng tăng tốc nhờ Nghị quyết 136 sửa đổi
Việc Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết 136 được xem là bước đi quan trọng về thể chế, tạo hành lang thuận lợi, “mở đường” cho kinh tế Đà Nẵng tăng tốc trong giai đoạn 2026 – 2030.






.jpg)